Trong bối cảnh đất nước đổi mới, Việt Nam đã gia nhập sân chơi thương mại quốc tế, việc xóa bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước là một lợi thế cạnh tranh tự do, nhưng những rào cản về an toàn vệ sinh dịch tể là một trong những thách thức mới của chúng ta. Ngoài ra, ngày nay lối sống của người tiêu dùng thay đổi và xu hướng do chất lượng cuộc sống tăng dẫn đến nhu cầu về sản phẩm rau quả an toàn là điều tất yếu. Muốn sản xuất trái cây có hiệu quả, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và có khả năng xuất khẩu thì phải đảm bảo theo qui trình sản xuất nông nghiệp tốt (viết tắt là GAP). Đặc biệt là bưởi da xanh là loại trái cây gần như đặc sản của Bến Tre, con đường xuất khẩu “rộng mở” nếu như nông dân biết sản xuất theo hướng an toàn.
Để đẩy mạnh tiêu thụ, xuất khẩu bưởi da xanh phải tạo ra các yếu tố cạnh tranh như chất lượng cao, giá thành thấp, vệ sinh an toàn thực phẩm, hình thức đẹp và dịch vụ thương mại tốt. Xác định đúng vùng sản xuất có lợi thế. Sản xuất trên diện tích lớn, cùng qui trình để có số lượng lớn và chất lượng đồng đều. Phát triển bưởi da xanh theo hai hướng: cải tạo nâng cao chất lượng vườn cây đã có đồng thời tăng nhanh diện tích trồng mới để từng bước hình thành vùng chuyên canh đặc sản gắn liền với thương hiệu bưởi da xanh. Các doanh nghiệp tiêu thụ kết hợp với nông dân xây dựng quan hệ sản xuất-tiêu dùng theo hướng các trang trại, hợp tác xã, gắn trực tiếp với tiêu thụ, xuất khẩu chặt chẽ và ổn định.
Định hướng cho việc sản xuất bưởi da xanh an toàn theo hướng GAP, ngay từ khâu chọn giống đầu tiên nên chọn những giống tốt, đồng giống, chất lượng đồng đều.
Về đất trồng: không trồng bưởi da xanh ở những nơi có nguy cơ cao về ô nhiễm hóa học hoặc trước khi trồng cần có những biện pháp xử lý để quản lý rũi ro.
Về phân bón: sử dụng các loại phân hữu cơ như phân xanh, phân chuồng đã được ủ oai mục. Tuyệt đối không được dùng các loại phân hữu cơ còn tươi. Bón phân hữu cơ sẽ làm tăng phẩm chất trái bưởi rõ rệt. Sử dụng hợp lý và cân đối giữa các loại phân (hữu cơ, vô cơ) cũng là một yếu tố quan trọng làm tăng phẩm chất bưởi da xanh. Có thể bổ sung phân bón lá nhưng phải theo đúng hướng dẫn. Hạn chế tối đa sử dụng chất điều hòa sinh trưởng cây trồng. Kể cả khâu nước tưới cho vùng sản xuất rau quả an toàn cũng phải sử dụng nguồn nước sạch, không được dùng trực tiếp các nước thải từ công nghiệp thành phố hoặc nước ao mương, tù đọng, ô nhiễm. Việc sử dụng nguồn nước tưới không bảo đảm cũng đã gây tích lũy độc chất như: chì, thủy ngân,… trong trái làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường.
Về phòng trừ sâu bệnh: cần phải được kiểm soát nghiêm ngặt. Đây là khâu đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hành sản xuất nông sản theo GAP. Áp dụng quản lý dịch hại tổng hợp trên nguyên tắc hạn chế thấp nhất sự thiệt hại do sâu bệnh gây ra, có hiệu quả kinh tế cao, ít độc hại cho người và môi trường. Trong trường hợp cần thiết phải dùng đến thuốc hóa học thì nên tăng cường sử dụng các lọai thuốc sinh học. Có thể sử dụng phân hữu cơ ủ với chế phẩm sinh học Trichoderma để ngừa các nấm bệnh tấn công từ đất như nấm Phytophthora sp; nấm Fusarium sp; nấm Rhizoctonia…. Tuyệt đối không dùng các loại thuốc cấm, thuốc hạn chế sử dụng ở Việt Nam và phải đảm bảo đúng thời gian cách ly. Tuyệt đối không nhúng rau quả (xử lý sản phẩm đã thu hoạch) bằng các hóa chất bảo vệ thực vật. Ngoài ra, khâu thu hoạch và xử lý sau thu hoạch cũng phải được đảm bảo vệ sinh.
Tiến trình “GAP hóa” của Việt Nam ắt hẳn không tránh khỏi nhiều khó khăn trở ngại mà mọi người và xã hội đang hết sức quan tâm, tiếp cận và từng bước tự điều chỉnh ngày càng tốt hơn để góp phần cho sản phẩm trái cây của chúng ta vững chắc đi vào hội nhập thương mại quốc tế.
Nguyễn Thị Nguyệt
|